Thứ Ba, 21 tháng 2, 2012

KHI NÀO CÁC BỘ PHẬN CƠ THỂ BẮT ĐẦU THOÁI HÓA ?

KHI NÀO CÁC BỘ PHẬN CƠ THỂ BẮT ĐẦU THOÁI HÓA ?


Khi nào các bộ phận trong cơ thể của con người bắt đầu thoái hóa?
 
Già là một điều không ai tránh khỏi. Hiện nay các viện nghiên cứu y khoa đã cho biết một cách chính xác các bộ phận trong cơ thể của con người bắt đầu thoái hóa từ lúc nào. Các bác sĩ người Pháp đã tìm thấy chất lượng tinh trùng bắt đầu suy thoái từ tuổi 35, bởi thế khi người đàn ông 45 tuổi thì một phần ba số lần mang thai sẽ dẫn đến sảy thai. Angela Epstein đã viết trong Daily Mail,  tuổi của các bộ phận trong cơ thể bắt đầu suy thoái như sau :
 
1./ Não bắt đầu suy thoái lúc 20 tuổi .
Khi chúng ta trưởng thành, các tế bào não  bị giảm dần. Và não cũng teo nhỏ lại. Khởi đầu con người có 100 tỉ tế bào não, nhưng đến tuổi 20 con số nầy giảm dần, và đến tuổi 40 con người mất mỗi ngày 10.000 tế bào ảnh hưởng rất nhiều đến trí nhớ và có tác dụng rất lớn đến tâm sinh lý người già...
 
2./ Ruột bắt đầu suy giảm từ tuổi 55.
Ruột tốt có sự cân bằng giữa các vi khuẩn có ích và có hại. Vi khuẩn có ích sẽ giảm đi đáng kể sau tuổi 55, đặc biệt ở phần ruột già. Sau 55 tuổi bộ tiêu hóa bắt đầu xấu đi và sẽ gây hại cho các bệnh đường ruột. Táo bón là một bệnh thông thường của tuổi già, cũng như dịch vị từ bao tử, gan, tuyến tuỵ, ruột non bị suy giảm .
 
4./ Bọng đái bắt đầu suy thoái từ tuổi 65 .
Người già thường mất kiểm soát bọng đái Nó bắt đầu co lại đột ngột, ngay cả khi không đầy. Phụ nữ dễ gặp trục trặc này hơn khi chấm dứt kinh nguyệt. Khả năng chứa nước tiểu của bọng đái một người già chỉ bằng nửa so với người trẻ tuổi, khoảng 2 c ốc ở tuổi 30 và 1 c ốc ở tuổi 70. Điều này khiến người già phải đi tiểu nhiều hơn, và dễ nhiễm trùng đường tiểu. 
5./ Vú bắt đầu thoái hóa từ năm 35 tuổi .
Khi người đàn bà đến 30 tuổi thì vú mất dần các mô và mở, sự đầy đặn và kích cở của bộ vú bị suy giảm. Khi 40 tuổi núm vú bị teo lại và vú thòng xuống.
 
6./ Phổi lão hóa từ tuổi 20.
Sụn sườn vôi hóa, lồng ngực biến dạng, khớp cứng ảnh hưởng tới thở, nhu mô phổi giảm đàn hồi, giãm phế nang. Dung tích của phổi bắt đầu giảm  dần từ tuổi 20. Ðến tuổi 40 có nhiều người đã bắt đầu khó thở vì các cơ bắp và xương sườn buồng phổi bắt đầu xơ cứng .
 
7./ Giọng nói bắt đầu yếu và khàn kể từ tuổi 65. 
Phụ nữ có giọng khàn và nhỏ trong khi đàn ông giọng cao và nhẹ
 
8./ Mắt lão hóa từ năm 40
và phần lớn phải mang kiếng, không còn nhìn rõ một vật ở xa. Khả năng tập trung của mắt kém hơn do cơ mắt yếu hơn.
 
9./ Tim lão hóa từ tuổi 40.
Khối lượng cơ tim giảm. Tuần hoàn nuôi cơ tim cũng giảm,  suy tim tiềm tàng, huyết áp tăng dần...Sức bơm của tim giảm dần vì các mạch máu giảm sự đàn hồi. Các động mạch cứng dần và bị mở đóng vào các thành mạch. Máu cung cấp cho tim cũng bị giảm bớt. Ðàn ông 45 tuổi và đàn bà 55 dễ bị đau tim .
 
10./ Gan lão hóa từ năm 70.
Chức năng chuyển hóa và giải độc giảm.Tuy nhiên gan là  một bộ phận gần như không chịu khuất phục tuổi tác . Người ta có thể ghép gan của một ông già 70 tuổi cho một người 20 tuổi.
 
11./ Thận lão hóa năm 50.
Số đơn vị lọc chất thải khỏi máu bắt đầu giảm xuống ở tuổi trung niên.
 
12./ Tuyến tiền liệt lão hóa vào năm 50.
Hệ thống sinh dục nam gồm có: tinh hoàn và bộ phận sinh dục phụ như đường dẫn tinh, tuyến tiền liệt, tuyến hành niệu đạo, túi tinh và dương vật.Tuyến tiền liệt thường lớn dần theo tuổi tác.  Khi tuyến tiền liệt tăng kích thước sẽ ép vào niệu đạo và bàng quang, gây khó khăn cho tiểu tiện. Nó gây nên triệu chứng tiểu ngập ngừng, tiểu nhiều lần, tăng nguy cơ nhiễm trùng tiết niệu và tiểu khó.
 
13./ Xương lão hóa hóa vào tuổi 35.
Cho đến giữa những năm 20 tuổi, mật độ xương vẫn còn tăng. Trẻ em xương lớn rất nhanh, cứ mỗi 2 năm lại thay đổi toàn bộ xương củ, nhưng đến tuổi 35 thì xương đã lão,  hiện tượng mất xương bắt đầu như một quá trình già cả tự nhiên.
 
14./ Răng suy từ tuổi 40. 
Răng bị hao mòn. Dễ bị bệnh nha chu. Niêm mạc bị teo dần 
 
15./ Bắp thịt lão hóa từ năm 30 .
Thông thường bắp thịt khi bị lão hoá thì được tái tạo ngay, nhưng đến tuổi 30 thì tái tạo it hơn là  lão hóa. Ðến tuổi 40, mỗi năm bắp thịt bị sút giảm từ 0.5 đến 2 %. Vì thế người già khó giữ thăng bằng, trở thành chậm chạp, dễ bị ngã và gẫy xương.
 
16./ Nghe giảm đi kể từ giữa năm 50.
Rất nhiều người bị lãng tai kể từ năm 60
 
17./ Da suy giảm kể từ năm 20.
Chúng ta đã giảm dần việc sản xuất chất keo dính của da từ giữa tuổi 20. Việc thay thế các tế bào chết cũng chậm dần.
 
18./ Vị giác và khứu giác giảm từ năm 60.
Thông thưuờng chúng ta có thể nếm được 100.000 vị trên lưởi. Các vị này chúng ta chỉ nếm được phân nửa khi già và đến tuổi 60 thì không còn ngửi và nếm một cách chính xác được nữa
 
19./ Sinh sản mất khả năng từ năm 35.
Khả năng sinh nở của phụ nữ bắt đầu giảm sau tuổi 35, vì số lượng và chất lượng trứng trong tử cung giảm xuống.
 
20./ Tóc lão hóa từ tuổi 30.
Thông thường cứ 3 năm thì tóc cũ sẽ được thay thế toàn bộ tóc mới. Và đến năm 35 tuổi thì tóc không còn đen nhánh nữa mà ngã màu đen xám và rụng dần đi .
 
Làm thế nào để làm chậm sự lão hóa ?
 
Già không phải là một bệnh nhưng già tạo điều kiện cho bệnh phát sinh và phát triển; cần chú ý một số đặc điểm sau:
 
- Người già thường mắc nhiều bệnh cùng một lúc, có bệnh dễ phát hiện, nhưng cũng có bệnh rất kín đáo, tiềm tàng, nguy hiểm.
 
- Triệu chứng ít khi điển hình, không ồ ạt, không rõ rệt, nên khó chẩn đoán, dễ sai lạc nếu ít kinh nghiệm.
 
- Khả năng phục hồi sức khỏe sau các trận ốm thường chậm hơn so với người  trẻ, nên sau điều trị phải có thời gian an dưỡng.
 
Một số biện pháp làm giảm tốc độ lão hóa:
 
Học thuyết âm dương của y học cổ truyền chứng minh con người là một chỉnh thể giữa âm dương, giữa khí và huyết. Luôn luôn thăng bằng với nhau từ trên xuống dưới, từ dưới lên trên, từ trong ra ngoài, từ ngoài vào trong theo một quy luật nhất định, để duy trì sự sống của con người được bền vững dài lâu. Vì thế muốn giảm tốc độ lão hóa cần phải:
 
Về tư tưởng luôn luôn lạc quan yêu đời, chủ động gạt bỏ những cái làm ảnh hưởng đến bộ não, hạn chế tối đa nỗi cô đơn, giải quyết tốt nhất mối quan hệ xã hội và gia đình, có triết lý sống đúng; phải chú ý cả 3 vấn đề: lẽ sống, lối sống và hành động sao cho khoa học văn minh để loại trừ 7 nguyên nhân gây bệnh của Đông y là : hỷ, nộ, ưu, tư, bi, kinh, khủng. Muốn được thảnh thơi phải có kiến thức, phải có hiểu biết để nhìn nhận vấn đề sao cho đúng đắn qua báo chí, đài phát thanh, truyền hình để làm chủ được mình và giáo dục cho gia đình, con cháu giảm các nỗi bực dọc và tự chăm lo cho mình.
 
Thường xuyên luyện tập đều đặn về trí tuệ và thể lực như đọc sách báo, nghe đài, xem TV... đồng thời tập thể dục thể thao, đi bộ, tập thở, tĩnh tâm thư giãn, v.v... phù hợp với hoàn cảnh và sức khỏe từng người.
 
Sinh hoạt điều độ, không làm gì quá sức bình thường, giữ gìn trạng thái cân bằng giữa ngủ và nghỉ, giữa ăn và làm, giữa trí óc và chân tay, giữa trong nhà và ngoài trời, giữa lười và chăm, v.v... cũng rất quan trọng.
 
Ăn uống đúng và đủ theo khả năng của mình, không nên nghiện bất cứ thứ gì, hạn chế thịt nhất là mỡ, ăn nhiều rau quả tươi, giảm chất bột, giảm bánh kẹo, bảo đảm cân bằng thức ăn âm và dương, giữ người không béo và cũng không gầy. Nên nhớ con người là giống ăn  ngũ cốc, nên thức ăn cho người phải 80% là ngũ cốc còn 20% là rau quả và các thứ khác, không nên ăn quá no, người già rất cần đạm ở đậu tương, vừng lạc, tôm cua, ốc hến...
 
Cần có môi trường sống tự nhiên tốt, phần lớn các cụ sống 100 tuổi trở lên đều ở vùng núi, ở nông thôn còn ở thành phố thì rất ít và gốc cũng không phải thành thị. Hiện nay môi trường sống đang bị tàn phá nghiêm trọng đó là tự hủy hoại mình (chặt cây, phá rừng, chất thải, phân hóa học, thuốc trừ sâu...) đã làm mất đi cảnh thanh bình của thiên nhiên, là điều cũng nên hết sức tránh.
 
Kiên trì áp dụng 10 bài học về sức khỏe của Nhật Bản, đất nước được mệnh danh là “vương quốc của tuổi thọ” vì có tuổi thọ cao nhất thế giới hiện nay. 10 bài học đó là:
 
- Bớt ăn thịt, ăn nhiều rau
- Bớt ăn mặn, ăn nhiều chất chua
- Bớt ăn đường, ăn nhiều hoa quả
- Bớt ăn chất bột, ăn nhiều sữa
- Bớt mặc nhiều quần áo, tắm nhiều lần
- Bớt đi xe, năng đi bộ
- Bớt phiền muộn, ngủ nhiều hơn
- Bớt nóng giận, cười nhiều hơn
- Bớt nói, làm nhiều hơn
- Bớt ham muốn, chia sẻ nhiều hơn
 
Những bài học trên có tác dụng rất lớn đối với những người bị tăng huyết áp, bệnh tim mạch, ung thư dạ dày, viêm gan...
 
Biết cách sống, ta có thể làm chậm được quá trình lão hóa, kéo dài được tuổi thọ, có thể điều chỉnh được chiếc đồng hồ sinh học trong con người chúng ta chạy chậm lại, ta cũng có thể giữ bộ máy cực kỳ tinh vi của ta được bền vững lâu dài hơn.

Thứ Năm, 16 tháng 2, 2012

Ăn chay - ăn khôn ngoan

 Ăn chay - ăn khôn ngoan
 

Nhiều người cho rằng, ăn chay không đủ chất bổ dưỡng. Nhưng ngược lại, theo BS Nguyễn Thị Kim Hưng (nguyên GĐ Trung tâm Dinh dưỡng) thì ăn chay là cách ăn khôn ngoan. Vì nếu ăn chay đúng cách, bạn chẳng những được cung cấp đầy đủ dinh dưỡng mà còn có thể phòng chống được nhiều loại bệnh.
Hiệp hội Tiết chế Mỹ và Hiệp hội y tế Anh đã khẳng định: ăn chay (không thịt, thủy - hải sản) vẫn có thể cung cấp đầy đủ dinh dưỡng cần thiết cho cơ thể trẻ nhỏ và người lớn. Chẳng những thế, ăn chay còn giúp bạn tránh được bệnh tật, vì lượng chất béo bão hòa thấp, cholesterol và đạm thực vật thấp, nhưng lại có thể bổ sung nhiều vitamine chống oxy hóa, dưỡng chất từ thực vật.
Nếu bệnh tim là kẻ giết người số một, thì người ăn chay có tỷ lệ chết vì bệnh tim ít hơn so với người không ăn chay. Tỷ lệ tử vong do đau tim của những người ăn thịt cao hơn người ăn chay là 50%. Tỷ lệ bị ung thư của người ăn chay cũng ít hơn 25% - 50% so với người không ăn chay. Phụ nữ ăn thịt hàng ngày có nguy cơ mắc bệnh ung thư vú cao hơn 3,8 lần so với những người ăn ít thịt hơn (khoảng một lần/tuần). Tăng huyết áp ở người ăn chay cũng ít hơn so với người ăn thịt. 



Giá trị tinh thần của ăn chay, theo  đại đức Thích Nhật Từ (chùa Giác Ngộ, TP.HCM) là dưỡng  tâm. Ăn chay đồng nghĩa với thương yêu loài vật (không sát sinh), từ đó thương yêu gia đình, láng giềng... góp phần không gây tổn hại môi sinh môi trường.
Muốn ăn chay trở thành phương pháp dưỡng sinh tự nhiên nhằm giữ gìn sức khỏe và phòng ngừa bệnh tật thì phải ăn đúng cách. Cụ thể, thức ăn chay được chia ra bốn nhóm:
Nhóm rau củ: cung cấp nhiều dưỡng chất cần thiết như sinh tố C, A, E, B2, sắt, calcium, chất xơ... Các chất này thường có trong những loại rau màu xanh và củ, quả màu vàng đậm.
Nhóm ngũ cốc: gồm gạo, bắp, lúa mì, hạt kê, lúa mạch. Ngũ cốc không nên chà trắng để giữ được chất bổ tự nhiên. Nhóm này có  nhiều vitamine B, chất xơ tốt cho tiêu hóa, ngừa được chứng ung thư ruột già và bao tử.

Nhóm trái cây: phần lớn chứa nhiều vitamine A, C, chất xơ, giúp cơ thể  tăng cường sức đề kháng, chống lại nhiều bệnh tật.
Nhóm đậu: đậu Hà Lan, đậu đũa, đậu cô ve, đậu nành, đậu xanh, đậu đỏ, đậu phộng...  
Nếu ăn chay hàng ngày thì nên phối hợp cả bốn nhóm để cơ thể không thiếu hụt chất dinh dưỡng.
Lưu ý, khi dùng dầu thảo mộc để chiên thức ăn, chỉ nên dùng một lần, vì dùng lại, dầu ăn không còn thuần khiết, có thể gây ung thư.
Ăn chay nên dùng các thực phẩm thiên nhiên còn tươi tốt. Những loại rau quả để lâu, hay đóng hộp đều  không phải là thức ăn dinh dưỡng.
Thu Thủy tổng hợp (PNTPHCM)

Những phương pháp chữa bệnh không dùng thuốc

 Những phương pháp chữa bệnh không dùng thuốc
 

Câu hỏi cần thiết là tại sao những khu phát triển kinh tế với trình độ văn hóa càng cao thì càng xuất hiện những bệnh tật mới lạ và tỷ lệ phát bệnh càng nhiều càng khó trị ? Xu hướng xuất hiện bệnh văn minh ngày càng nhiều, chẳng thể giải thích. Do đó, những phương pháp chữa bệnh không dùng thuốc ắt được người ta chú trọng, cuối cùng sẽ kiến lập một thế hệ y học mới.
Tùy sự phát triển của văn minh nhân loại, trình độ gánh vác của tinh thần và lao nhọc của thể xác cũng theo đó gia tăng, khiến bệnh tật ngày càng phức tạp khó trị. Cách trị liệu của y học hiện hữu chẳng thể giải quyết sự mâu thuẫn này. Đối với bệnh ung thư, sida và những bệnh nan y quái lạ do tinh thần căng thẳng gây nên, cảm thấy vô phương đối trị.
 
Đứng trên lý luận triết học, từ gốc độ vật lý hóa học đến sinh lý giải phẫu để xem xét, nguyên nhân căn bản không thể nhận thức bản chất của bệnh tật là do cố chấp lý luận không gian ba chiều tự tạo chướng ngại.
 
Câu hỏi cần thiết là tại sao những khu phát triển kinh tế với trình độ văn hóa càng cao thì càng xuất hiện những bệnh tật mới lạ và tỷ lệ phát bệnh càng nhiều càng khó trị ? Xu hướng xuất hiện bệnh văn minh ngày càng nhiều, chẳng thể giải thích. Do đó, vô dược liệu pháp ắt được người ta chú trọng, cuối cùng sẽ kiến lập một thế hệ y học mới.
 
Theo hiện tượng mà chúng tôi đã biết, đối với những bệnh tật có tánh tiềm ẩn trong cơ thể và do tình dục phát triển quá mạnh, làm cho chức năng của tạng phủ gánh vác không nổi, cuộc sống thất thường, lâu ngày rồi sinh ra quái bệnh. những phương pháp đối trị những bệnh tật kể trên bằng vô dược liệu pháp vừa giản dị lại mau có công hiệu. Vô dược liệu pháp xưa nay các nước đều có, nếu sưu tập lại có thể thành một hệ thống cụ thể, nay diển tả theo từng môn loại, trong đó có cái thì có pháp mà vô lý, có cái thuộc về bí truyền, khó giải thích theo lý luận khoa học hiện đại; có cái thuộc bất khả tư nghì, thậm chí nghiêng về tính cách mê tín, các chuyên gia không dám tiếp xúc, e sợ ảnh hưởng đến sự nghiêm túc của kỹ thuật khoa học. Nhưng đối với những người mang bệnh đã lâu, bị y học chánh thống phán đoán cho là không còn hy vọng, chẳng có lối thoát, vì sự khát vọng cầu sống mà áp dụng vô dược liệu pháp lại được lành bệnh một cách kỳ lạ. Do đó chúng tôi quy nạp tất cả vô dược liệu pháp, phân ra thứ lớp và môn loại, thành 12 loại như sau :
 
1.- KHÍ CÔNG LIỆU PHÁP
 
Khí công liệu pháp là một điển hình của vô dược liệu pháp, hiện tượng khí công là hiện tượng hoạt động của tâm lý và sinh lý đặc biệt, khác hơn người thường. Kỹ thuật khí công là một thứ kỹ thuật phản nghịch quy luật thường, kỹ thuật này được biểu hiện ra dưới trạng thái công năng đặc biệt, là một thứ kỹ thuật mà người thường không có khả năng xử dụng, chỉ có những người đã thông qua tu luyện như kích phát, dẫn dụ, truyền thọ, cảm ứng mới có công năng để xử dụng, ví như xem xa, biết xa, chẩn đoán bằng xem thấu vật chất như X quang, cho đến ý niệm dời vật v.v… Khí công liệu pháp có sự tồn tại chơn thật, đã được giới khoa học công nhận, nên xếp loại lớp thứ nhất của vô dược liệu pháp.
 
2.- LIỆU PHÁP CÔNG NĂNG ĐẶC BIỆT BẨM SINH
Có người sinh ra tự có công năng đặc biệt, có thể gọi là " khí công sẵn có". Người có công năng đặc biệt giống như nhà khí công, cũng là tiềm năng của sinh mạng hiện ra công năng phản nghịch qui luật thường. Kỳ thật, cách đoán bệnh trị bệnh của người công năng đặc biệt rất đơn giản, khéo hơn nhà khí công và thần hiệu hơn, các thứ trị liệu khác không thể so sánh, cũng thuộc một thứ vô dược liệu pháp.
 
3.- KINH LẠC LIỆU PHÁP
 
Kinh lạc gồm châm cứu, điểm huyệt, xoa bóp v.v… Đông y đem kết hợp với khí công, thì công hiệu trị liệu được tăng cường nhiều hơn là chỉ dùng mỗi thứ riêng biệt. Kinh lạc chẳng thể thấy, chẳng thể mò, mà Đông y lại đặt ra một hệ thống cụ thể rõ ràng, vẽ ra biểu đồ đầy đủ mọi kinh lạc trong cơ thể, dù sinh lý giải phẫu tìm không ra nó, nhưng đại học y khoa phương Tây lại đặt ra khoa châm cứu, có bằng cấp tốt nghiệp được chính phủ công nhận, vậy có thể chứng tỏ người xưa dùng siêu ngũ giác quan để cảm nhận tin tức ẩn tánh trong cơ thể cũng là điều hợp lý.
 
4.- TỊCH CỐC TUYỆT THỰC LIỆU PHÁP
 
Nguồn năng lượng của con người là do thức ăn đưa vào bao tử và ruột, thông qua phản ứng hóa học sinh ra nhiệt lượng và dinh dưỡng cần thiết của cơ thể, nếu không cần lương thực bằng vật chất mà được trực tiếp thu hút năng lượng trong không gian để nuôi dưỡng cơ thể, chẳng cần ăn cơm thì phương tiện biết bao! Nếu thật chẳng cần ăn cơm thì chẳng sanh ra cái khổ "bệnh từ miệng vào", có sự kỳ lạ hơn là đang lúc tịch cốc, sinh lý của cơ thể có thể tự điều chỉnh quân bình mà lành bệnh và giữ sức khỏe. Ở Hàng Châu Trung Quốc, có một nhà khí công tên Trương Vinh Đường, truyền thọ kỹ thuật khí công tịch cốc rất kỳ lạ: Ông ấy chẳng cần trực tiếp phát công trị bệnh, bệnh nhân chẳng cần luyện công, có thể xuất hiện trạng thái tịch cốc, chẳng cần ăn uống mà khỏe mạnh và làm việc như thường, đồng thời các thứ bệnh kinh niên cũng được dần dần giảm bớt và tiêu trừ. Kỳ thật đối với phương pháp này cũng chẳng nên nghi ngờ, các nước tân tiến cũng có áp dụng tuyệt thực liệu pháp, đều có công hiệu, chỉ là hiện nay chưa được các học giả xem trọng, lại, đối với người tham ăn cũng không muốn chấp nhận, nghĩa là chưa đến bước đường cùng thì đa số bệnh nhân không chịu chọn cách nhịn đói để chữa bệnh! Điều chúng tôi muốn nhấn mạnh là sự phát triển theo qui luật biến hóa của sinh lý con người, sự phát triển từ phức tạp đến đơn giản, từ thức ăn hữu hình tiến đến thức ăn vô hình (năng lượng), dần dần phát triển tiến hóa, cuối cùng cắt tuyệt nguyên do phát bệnh và giải quyết vấn đề căn bản của sinh lão bệnh tử. Do đó, tịch cốc liệu pháp sẽ được chúng ta xem trọng.
 
5.- Ý NIỆM LIỆU PHÁP
 
Ý niệm là một thứ lực bằng năng lượng, khác với lực cơ điện, gán tên cho nó gọi là động lực ẩn tánh. Năng lượng ý niệm đã được nghiệm chứng có sự tồn tại khách quan, ở đây chúng tôi muốn nói về dùng ý niệm lực có thể trị bệnh, việc này đã là chuyện thường đối với nhà khí công. Trong thập niên 50, Liên Xô đã áp dụng phương pháp sanh đẻ không đau, cũng có hiệu quả: Bác sĩ dùng ý niệm cương quyết bảo người sản phụ rằng việc sinh con vốn chẳng đau đớn, sở dĩ cảm thấy đau là do tinh thần lo sợ mà ra. Ý niệm này khi được sản phụ chấp nhận và đủ lòng tin phối hợp thì sẽ có công hiệu, ý niệm càng kiên cố càng được hiệu quả. Trường hợp nếu sản phụ cho đó chỉ là lời an ủi, do không tin mà cảm thấy hoang mang thì ý niệm lực phát ra chẳng được tiếp nhận, ắt phải thất bại. Theo đó có thể chứng tỏ sự hiệu ứng của ý niệm lực. Tất cả nhà khí công được hiệu ứng trong trị liệu đều liên quan đến sự hoạt động của ý niệm. Phương pháp của họ có ba tầng lớp: Kích phát ngoại khí, bắn ra ý niệm lực và điều khiển tin tức. Sau khi hiểu được cơ chế của ý niệm lực, người chẳng biết khí công vẫn có thể dùng ý niệm để chữa bệnh, chẳng phải chỉ có nhà khí công mới trị bệnh bằng ý niệm lực; như sự cầu nguyện của Tin lành, trì chú của Mật tông, tụng kinh của Đạo giáo, Phật giáo, cho đến hoạt động tế thần của những bộ lạc nguyên thủy ở Châu Phi v.v… trong lúc vô ý mà lợi dụng ý niệm lực cũng được phát huy hiệu ứng trị liệu
 
6.- TIN TỨC LIỆU PHÁP
 
Nội dung của tin tức có hai: Một thứ có thể thấy nghe, như bùa chú, đồ hình, vật tin tức của Đạo gia, âm nhạc, chuông trống, tụng ki nh của nhà Phật, dùng các loại tin tức thông qua sự thấy nghe để thỏa mãn nhu cầu của con người. một thứ thuộc vô hình, chẳng thể thấy nghe, như làn sóng tin tức, quán tưởng sinh linh trên hành tinh, quán tâm linh của chính mình, thầm tưởng các thứ bí quyết và khẩu lệnh bằng mật mã. Người bệnh nếu có ý niệm tin tưởng mãnh liệt và có người hướng dẫn, giúp đở, hợp tác tăng cường, sẽ hình thành làn sóng tin tức, điều khiển ý niệm lực để trị bệnh, cũng được hiệu ứng mau chóng. Tin tức liệu pháp xưa nay đã lưu truyền mấy ngàn năm, các nước đều có, nhất là ở các bộ lạc và dân tộc thiểu số còn gặp nhiều hơn, nhưng họ thường bị người văn minh cho là mê tín, nhưng lòng tin của họ rất vững chắc, không sợ phê phán và ngăn cấm, sự thật hiện nay vẫn còn tồn tại. Tin tức liệu pháp có nhiều hình thức, như rửa tội, xoa đầu an ủi, ban phước, chiêu hồn, đuổi tà v.v…trong hoạt động tôn giáo, và tin tức thủy, tin tức nhạc, tin tức viết, tin tức quạt … của người có công năng đặc biệt và nhà khí công, có thể điều khiển sinh lý hoạt động của tin tức, siêu việt thời gian không gian để chẩn đoán, trị liệu bệnh nhân bất cứ xa gần. Nói tóm lại, ý niệm trị liệu mở mang phát triển, ắt sẽ dẫn ra tin tức trị liệu, nghĩa là thúc đẩy công năng của ý niệm trị liệu lên tầng lớp cao hơn.
7.- NHẬP ĐỊNH TƯ DUY TRỊ LIỆU
 
Tư duy trị liệu có bốn chữ yếu quyết: Buông, tịnh, hư, rỗng. Trước tiên buông xã thân tâm của chính mình, nếu đã làm được thì thân tâm có thể nghỉ ngơi đầy đủ, theo qui luật điều chỉnh sinh lý. Sau khi buông xã thân tâm rồi có thể nhập tịnh, do tịnh sanh huệ, do tịnh tăng trí, trạng thái tịnh có thể khiến sự rối loạn của thân tâm khôi phục trật tự quân bình mà đạt đến mục đích trị liệu. Thông thường trạng thái tịnh khó giữ được thời gian lâu dài, chân thật thâm sâu, thực hiện " tư duy trống rỗng" chẳng phải dễ, nên dùng một niệm thay trăm niệm; một niệm còn thì trăm niệm tiêu; một niệm này tức là niệm của tư duy siêu phàm. Nói "tư duy" chẳng phải lo nghĩ việc ăn mặc đi ở, danh lợi thành bại của thế gian, tư duy tức quán tưởng chơn lý của nhân sinh vũ trụ, giống như tham thoại đầu của Thiền tông. Tư duy sanh ra hiệu ứng, có thể điều chỉnh trạng thái sinh lý, khiến thân tâm tự nhiên quân bình, trong đó bao gồm dưỡng sinh, ngộ đạo, mở mang trí tuệ, gọi là minh tâm kiến tánh. Tư duy chú trọng nhập tịnh, giống như tịnh công của khí công, từ buông đến tịnh, đạt đến tánh không, quên mình, Lão Tử gọi là "vô vi"; vô vi mới có thể vô sở bất vi, quên mình thì quên hết phiền não thế gian, tâm linh sáng tỏ thì khí huyết điều hòa, bệnh từ đâu đến ?
 
8.- THIỀN ĐỊNH LIỆU PHÁP
 
Tư duy tiến vào cảnh giới tầng lớp cao hơn tức là tịnh lự, cũng gọi là "Thiền". Thiền tọa kéo dài, đạt đến trạng thái tối cao gọi là thiền định, được nhập thiền định sẽ siêu thoát tất cả lo âu tính toán của việc thế gian, gọi là "vô niệm" (chẳng có vọng niệm). Thiền định đến cảnh giới cao tột, không những có thể tiêu trừ bệnh tật, còn có thể không nhờ ăn uống mà duy trì sinh mạng lâu dài cho đến mấy trăm năm. Liệu pháp này rất khó thực dụng trong đời sống căng thẳng ngày nay, luôn cả tuyên truyền cũng khó được người ta tiếp nhận, nhưng nó thuộc về liệu pháp thượng hạng, người ham tu hành đa số đều hiểu lý này.
 
9.- TÂM LÝ LIỆU PHÁP
 
Pháp này xuất phát từ phương Tây, sau này theo khoa học hiện đại truyền sang phương Đông, Tâm lý học lại hình thành một môn học trong sách giáo khoa. Tâm lý liệu pháp luôn tồn tại nơi lâm sàng của bệnh viện, bác sĩ dùng an ủi liệu pháp, bảo đảm liệu pháp v.v… đều thuộc phạm vi của tâm lý liệu pháp. có người cho rằng bệnh nhân ung thư thường chết vì sợ hãi, chẳng phải vô lý: do tinh thần lo âu ảnh hưởng sức khỏe, điều đó ai cũng biết, bệnh nhân thiếu lòng tin thì bệnh khó trị, là dựa trên quan điểm Tâm lý học. Có người nói "khí công cũng là tâm lý liệu pháp" ấy là sai, phải nói là trong khí công liệu pháp có xử dụng tâm lý liệu pháp, nhưng chẳng đồng nhau. Tâm lý liệu pháp của phương Tây còn nông cạn, thuộc dạng bị động, họ chẳng thể dùng nhân tố tích cực trong cơ thể sinh mạng của bệnh nhân điều khiển tiềm năng sinh lý của họ. Nếu chỉ đơn thuần xử dụng tâm lý liệu pháp thường không đủ công hiệu, lại chẳng dễ gì được bệnh nhân tiếp nhận lâu dài, nếu bệnh nhân cho đó là sự thương xót an ủi thì mất linh nghiệm. Tâm lý liệu pháp phải kết hợp với các liệu pháp khác, khiến bệnh nhân tin tưởng tự sanh ra hiệu ứng của tâm lý họ, dùng ý chí lực tự điều chỉnh chính mình, như lời Đông y nói "thần lãnh hình, linh chủ mạng, khí thống huyết", từ đó thần an thì hình bất loạn, tâm bình thì thể tự hòa, nghĩa là do khả năng của chính mình thực hành tâm lý liệu pháp, mới trở thành một phương pháp kỳ diệu.
 
10.- SÁM HỐI LIỆU PHÁP
 
Trong cuộc đời của con người, đôi lúc vì làm ra việc xấu việc lầm rồi ghi nhớ hình ảnh trong tâm, sanh lòng hối hận tự trách chẳng thể giải tỏa, chôn vùi trong thâm tâm hình thành một khối độc hại, ảnh hưởng sức khỏe, gọi là tâm bệnh. do đó, tâm lý liệu pháp kể trên đã phát triển thêm một liệu pháp gọi là sám hối liệu pháp, cũng như người phương Tây thú tội trước Hồng y giáo chủ, cầu xin Thượng Đế xã tội; tín đồ của tôn giáo phương Đông cũng có sự hoạt động về sám hối, như tụng kinh bái sám để tiêu trừ bệnh ẩn mật đó, giải tỏa áp lực của tinh thần mà khôi phục lại sức khỏe. Sám hối liệu pháp vô hình để thấy, nhưng thường có công hiệu chơn thật. Muốn có hiệu ứng chơn thật, cần phải dùng lòng tin tưởng của mình, cầu trời làm chứng, thành kính sám hối, mới được công hiệu.
 
11.- NGŨ HÀNH LIỆU PHÁP
 
Sự hình thành của quả địa cầu là nhờ kim, mộc, thủy, hỏa, thổ, sự sinh tồn của người địa cầu cũng là nhờ nhân tố của kim mộc thủy hỏa thổ làm hữu cơ phối hợp mà thành. Khi sự phối hợp của ngũ hành mất qui luật thì sinh ra bệnh tật. Ngũ hành liệu pháp dùng mọi thứ riêng biệt để trị bệnh, cũng như kim dùng tiếng chuông để thay thế, mộc tức là ẩn khí của cây cối, thủy là nước suối, như tắm suối nóng, tắm nước tin tức, tắm hơi… hỏa là ánh sáng, là quang tuyến, như tắm nắng, trị liệu bằng tia sáng… thổ là tắm sình, tịnh dưỡng trong hang núi, đi chân không dẫm trên mặt đất, dạo chơi ngoại ô… Tóm lại, đối với ngũ hành liệu pháp, Đông y đã nghiên cứu ra một hệ thống cụ thể, có lý luận hoàn chỉnh, nếu biết cách xử dụng cũng rất công hiệu.
 
12.- THÔI MIÊN LIỆU PHÁP
 
Thôi miên liệu pháp đối với những bệnh hư tổn có nhiều công hiệu hơn, có người vì sinh kế mà lao tâm lao lực quá mức, lâu ngày thành bệnh, nếu được nghỉ ngơi đầy đủ để giảm bớt mỏi mệt, khôi phục sức khỏe, nhân công liệu pháp cũng là một trong những pháp đó. Khi vào được trạng thái thôi miên thì thể xác và tinh thần đều có dịp nghỉ ngơi và tự điều chỉnh quân bình, khi ngủ một giấc ngon lành thức dậy thì cảm thấy tinh thần khỏe mạnh. Người đủ điều kiện có thể tự mình thôi miên, khỏi nhờ nhà khí công và thầy thôi miên thì tiện hơn nhiều. Có người muốn tự thôi miên, đếm hơi thở trong tâm hoặc nghe tiếng tíc tắc của đồng hồ thường chẳng có công hiệu, ấy là vì ông chưa đủ khả năng thôi miên. Kỳ thật phương pháp thôi miên chẳng phải khó học, ai cũng có thể tự học thử, chủ yếu là luyện tập bốn chữ :Buông, tịnh, hư, rỗng đã đề cập trong điều "nhập tịnh tư duy liệu pháp" ở trên, người muốn học thôi miên cứ theo đó thực hành. Hiện nay Trung Quốc dùng cách thôi miên gây mê giải phẫu mà không cần thuốc mê, hiển nhiên chứng tỏ thôi miên liệu pháp là một đặc sắc của vô dược liệu pháp.
 
(Trích trong sách PHẬT PHÁP VỚI KHOA HỌC & TÂM LINH của Thiền sư Thích Duy Lực)
 
Thích Vân Phong trích lục

Thứ Hai, 13 tháng 2, 2012

TỎI VÀ GIA VỊ CỦA TỎI


TỎI VÀ GIA VỊ CỦA TỎI

Thuốc tỏi - Rượu tỏi
Nguyễn Thượng Chánh, DVM & Dược Sĩ Nguyễn Ngọc Lan

Tỏi (ail, garlic, allium sativum) là một món gia vị được dùng rất rộng rãi trong ẩm thực...
Pha nước mắm, ướp thịt, ướp cá, hay chiên, xào, kho, nướng, vân vân muốn cho ngon và cho thơm thì không thể nào thiếu tỏi được hết. Tỏi cũng còn được ngâm giấm làm dưa chua ngọt để chúng ta nhâm nhi chơi trong ba ngày Tết. Có người lại chỉthích ăn tỏi sống để có thể tận hưởng trọn vẹn cái hương vị vừa dòn dòn vừa cay cay vừa nồng nồng của nó mà thôi.
Bên cạnh những ích lợi về mặt dinh dưỡng, tỏi còn được sử dụng như một vị thuốc để đềphòng và để trị một số bệnh tật nữa.
***
Con người đã biết dùng tỏi để trị bệnh từ bao giờ?
Theo tài liệu, tỏi đã được sử dụng để trị bệnh từ 4.000-5.000 năm về trước tại Trung Quốc, Nhật Bản, Hy Lạp, La Mã, Ai Cập…


Vào năm 1858, Pasteur đã chứng minh được tính kháng khuẩn (antibacterial) của tỏi.
Trongđệ nhất thế chiến, người ta đã biết dùng bông gòn nhúng vào nước tỏi và đắp lên các vết thương để ngừa nó không làm độc sinh ra hoại thư (gangrene). Quân đội Nga cũng đã từng sử dụng nước tỏi để chữa trị các vết thương trong đệ nhị thếchiến vừa qua.
Tại Việt Nam từ lâu, tỏi vẫn được xem là một vị thuốc vườn rất hữu ích để trị bá bệnh. Tứ thời cảm mạo, ho hen, nghẹt mũi hay bị xổ mũi, đau bụng tiêu chảy, xổ lãi, bịrắn rết cắn, nhức tai, v.v…thì cứ lấy tỏi ra chế biến để mà ăn mà uống, mà chà xát vào da, mà nhỏ vào mũi hoặc vào tai.
Từ30 năm nay, kỹ nghệ thực phẩm và dược phẩm thiên nhiên cũng đã tung sản phẩm tỏi ra thị trường và nhờ khéo quảng cáo nên họ đã gặt hái được nhiều kết quả rất mỹmãn.
Ngoài ra, một số người sống ở các vùng nông thôn xứ Tây Phương vẫn còn mang nặng đầu óc dị đoan, nên họ thường tin tưởng rằng treo các xâu tỏi trước cổng nhà là có thể trừ được tà ma như dracula hay vampire…
Hoạt chất của tỏi
Tỏi có chứa nhiều hợp chất sulfur thí dụ như ajoene, S-allyl cysteine và thiosulfinates trong đó allicin được xem như hoạt chất chính của tỏi. Allicin được tạo ra khi chất alliin (là một amino acid có sulfur) tiếp xúc với enzyme allinase lúc tỏi được nhai, bằm nhỏ hay được nghiền nát. Chất allicin tạo mùi 'hôi' đặc biệt của tỏi. Allicin còn được xem như một chất kháng sinh thiên nhiên.
Hơn nữa, tỏi còn chứa nhiều chất chống oxyt hóa (antioxidants) rất tốt để trung hòa các gốc tự do (free radicals) là những chất làm tổn hại đến các tế bào.
Dùng tỏi để phòng bệnh gì?
Phía giới Đông y và kỹ nghệ thuốc thiên nhiên, tỏi được dùng để phòng và trị rất nhiều bệnh thông thường như: làm tăng sức miễn dịch, ho hen cảm cúm, đau bụng, tiêu chảy, kiết lỵ, nhiễm trùng, bệnh đau bao tử, các bệnh nhiễm nấm (như bệnh chân voi và những bệnh do nấm Candida albicans), tình trạng bị mụn nhọt ghẻ lở, giúp máu huyết lưu thông được dễ dàng, xổ lãi, trị rắn rết cắn, đau nhức lỗ tai, giúp long đàm dễ thở, trị phong thấp, viêm khớp, ngừa bệnh tim, ngừa tai biến mạch máu não, hạ cholestérol, hạ đường máu, ngừa dị ứng và một vài loại cancer, v.v…
Phía giới Tây y cũng đã thực hiện rất nhiều công trình nghiên cứu về tỏi, và họ đã đưa ra kết luận là tỏi có thể có một ít tác dụng tốt trên sức khỏe mặc dù các tác dụng này còn rất khiêm tốn, chớ không phải như phía giới Đông y và kỹ nghệ thuốc thiên nhiên thường hay quảng cáo quá đáng…
Một số nhận xét của các nhà khoa học về tác dụng của tỏi:
+ ngừa sự kết tụ tiểu cầu máu (antiplatelet);
+ ngừa máu bị đóng cục;
+ giúp tăng sức đàn hồi (elasticity) của động mạch và giúp máu được loãng hơn, lưu thông được dễ dàng;
+ chứa nhiều chất chống oxid hóa rất tốt cho sức khỏe;
+ có ít nhiều tính năng ngăn chặn sự xuất hiện của một vài loại ung thư(antineoplastic effect), chẳng hạn như ung thư ruột, ung thư tiền liệt tuyến. Còn với ung thư dạ dầy, tuy kết quả các thí nghiệm lâm sàng đều âm tính nhưng một số nhà nghiên cứu vẫn tin tuởng rằng tỏi vẫn có ích để ngừa sự xuất hiện của loại ung thư này nhờ vào khả năng kháng với vi khuẩn Helicobacter pylori đặc biệt sống trong bao tử. Được biết vi khuẩn nầy là tác nhân của bệnh loét dạ dày thường dẫnđến ung thư bao tử;
+giúp tăng cường sức miễn dịch, ngừa cảm cúm;
+ ngừa nhiễm trùng nấm các loại kể cả nhiễm nấm gây nên bệnh chân voi (athlete's foot hay tinea pedis) thường thấy xảy ra tại những nơi nóng và ẩm như các phòng thay quần áo ở hồ bơi. Thông thường bệnh chân voi được chữa trị bằng thuốc kháng nấm terbinafine, nhưng thí nghiệm dùng chất trích từ tỏi có chứa hoạt chất ajoene cũng có thể chữa hết bệnh sau hai tháng.
+ Còn vấn đề ngăn ngừa muỗi mòng chích, tỏi không mấy hữu hiệu; ở bệnh tiểu đường, các thí nghiệm cho biết là tỏi chỉ làm giảm đường lượng một cách không đáng kể;cũng như trong sự làm giảm cholestérol và triglyceride hay làm giảm huyết áp thì công dụng của tỏi cũng không đáng kể nếu không nói là không rõ rệt!
Còn nhiều trở ngại để xác định chỗ đứng của tỏi trong trị liệu
Mặc dù rất nhiều công trình khảo cứu khoa học đã được thực hiện về tỏi, nhưng cũng còn nhiều trở ngại nhất là việc thiếu thí nghiệm lâm sàng (clinical assay) cũng như hoạt chất của tỏi khó được định chuẩn (standardize) một cách dễ dàng và chính xác, bởi lẽ có tỏi non và có tỏi già cũng như tỏi dùng trong các cuộc thí nghiệm có thể ở dưới nhiều dạng khác nhau!
Các phương pháp và quy trình thí nghiệm cũng chưa được đồng nhất với nhau, vì vậy chúng thường cho ra những kết quả khó tiên liệu trước được!
Các nhà khoa học trên thế giới cũng chưa hoàn toàn thống nhứt ý kiến với nhau, và một số kết quả thí nghiệm về tỏi nên vẫn còn nằm trong vòng tranh luận!
Tỏi có thể gây ra một vài phản ứng phụ
Các phản ứng phụ đều rất nhẹ.
Trước hết là mùi hôi thoát ra từ miệng, từ hơi thở, từ mồ hôi, từ da và cả lúc đi cầu nữa nếu chúng ta ăn nhiều tỏi và ăn quá thường xuyên.
Ăn nhiều tỏi sống, đôi khi chúng ta có thể cảm thấy hơi khó chịu trong bao tử, xót ruột, hoặc ói mửa, tiêu chảy...
Nước tỏi tươi dùng ngoài da có thể gây dị ứng như làm đỏ da hay phòng da ở một số người.
Nên xúc miệng thường xuyên hay nhai ngò hoặc kẹo chewing gum có thể giúp hơi thở bớt hôi mùi tỏi được một phần nào.
Cẩn thận khi uống thuốc tỏi
Không nên ăn quá nhiều tỏi hoặc uống thuốc tỏi nếu bạn đang bị chứng bệnh về máu huyết hay bạn đang chuẩn bị để đi giải phẫu trong vòng 2 tuần sắp tới, vì tỏi có khuynh hướng làm loãng máu và do đó ảnh hưởng đến thời gian làm đông máu.
Không nên lạm dụng tỏi nếu bạn đang xài các thuốc trị bệnh tiểu đường chẳng hạn nhưcác loại thuốc uống làm hạ đường huyết hay thuốc chích insuline (tỏi có thể làm tăng tác dụng và làm thay đổi số lượng thuốc đang được sử dụng) hay các thuốc trị Sida hoặc bạn đang có bệnh thuộc về đường tiêu hóa.
Không nên sử dụng tỏi sau khi được ghép bộ phận vì tỏi có khuynh hướng kích thích sựloại bỏ bộ phận vừa mới được ghép vào.
Các bà mẹ cũng cần nên thận trọng, vì hoạt chất của tỏi có thể tiết qua sữa mẹ và làm cho các trẻ sơ sinh bị đau bụng.
Tỏi có thể tương tác với những loại thuốc nào?
Các dược phẩm và các loại thuốc thiên nhiên sau đây có thể bị làm thay đổi tác dụng hoặc tăng hoặc giảm, nếu được dùng cùng một lúc với tỏi:
*/ Thuốc trị nấm Ketoconazole (Nizoral) và Itraconazole (Sporanox);
*/ Thuốc ngừa thai;
*/ Thuốc kháng đông và thuốc ngăn cản sự kết tụ máu như Warfarin (Coumadin), Clopidogrel (Plavix), Ticlopidine (Ticlid), Enoxaparin (Lovenox) và Heparin vì có thể kéo theo nguy cơ bị xuất huyết;
*/ Các thuốc trị đau nhức thuộc nhóm NSAIDS (nonsteroidal antiInflammatory drugs) như Naproxen (Naprosyn, Aleve, Anaprox), Ibuprofen (Advil, Motrin)…
*/Các thuốc trị bệnh tim thuộc nhóm Calcium channel blockers như Diltiazem (Cardizem), Amlodipine (Norvasc), Verapamil (Chronovera, Isoptin), Nifedipine (Adalat)…
*/Các thuốc ngừa sự loại bỏ bộ phận ghép như Cyclosporine (Neoral)…
*/Các thuốc trị dị ứng như Fexofenadine (Allegra);
*/ Các loại thuốc thiên nhiên có tính làm loãng máu như capsicum, ginkgo, angelica, nhân sâm (panax ginseng), horseradish, củ hành, nghệ (turmeric), cam thảo (Licorice )…
*/Vitamine E dùng với liều lượng quá cao;
*/ Thuốc trị cao áp huyết như Losartan (Cozaar);
*/ Các thuốc kháng siêu vi antiviral như Saquinavir (Fortovase, Invirase), Ritonavir (Norvir), Nevirapine (Viramune)…
*/Các thuốc trị cancer như Vincristin (Oncovin), Etoposide (Vepesid), Paclitaxel (Taxol)…
Các dạng tỏi dùng để phòng bệnh theo Passeport Santé.net
Trong thực tế rất khó ấn định được liều lượng hữu hiệu của tỏi dùng để phòng bệnh hayđể trị bệnh.
Vì thế, chúng ta nên cẩn thận và tuân theo lời chỉ dẫn ghi trên hộp thuốc.
Dễnhất là ăn tỏi sống, mỗi ngày ăn 2 tép. Tỏi sống tuy có trở ngại là làm cho hơi thở hôi, nhưng ngược lại, nó có tính sát trùng và kháng khuẩn cao hơn tỏi chín.
*Dầu tỏi (huile d'ail, distillation à la vapeur d'eau): 0.5-1gr/ngày
*Tỏi khô (ail sèché): 0.5-1gr/ngày
*Rượu tỏi (teinture 1:5, 45% éthanol): uống 6ml-12ml chia làm 3 lần/ngày
*Bột tỏi khô (poudre d'ail déshydraté)
*Các chất trích được định chuẩn (extrait standardisé): mỗi gram bột tỏi chứa 1.3% chất alliine có tiềm năng tạo ra từ 3.6mg đến 5.4mg allicine). Uống từ 200-400mg 3 lần/ngày
Alliin is a sulfoxide that is a natural constituent of fresh garlic. It is a derivative of the amino acid cysteine. When fresh garlic is chopped or crushed, the enzyme alliinase converts alliin into allicin, which is responsible for the aroma of fresh garlic (Wikipedia)
*Tỏi dạng thuốc mỡ (crème d'ail, garlic cream): có hoạt chất ajoene 0.4%-1%. Dùng bôi thoa ngoài da để trị bệnh nấm tinea.
*Tỏi cô lãnh (ail cryogenique, cryogenic garlic): để giữ cho phẩm chất được tốt, chất trích của tỏi được làm cô lãnh lyophylisation, cryodessication ở một nhiệt độthật thấp (trừ 73 độ C hay trừ100 độ F) trong môi trường chân không.
Tại Canada, tỏi cryogenic được định chuẩn hóa và có tiềm năng (allicin yield, allicin potential) tạo ra từ 900micrograms (mcg) đến 4200mcg allicin cho mỗi viên tùy theo hiệu...
Tỏi viên không có chứa allicin mà chỉ có alliine và enzyme allinase. Chính phản ứng giữa 2 chất nầy khi tỏi tan sẽ tạo ra allicin.
Đểtránh cho allinase khỏi bị acid của bao tử làm hủy hoại đi, nhà bào chế đã cho áo bọc viên thuốc lại (enrobage entérosoluble, enteric coated tablet) và nó chỉtan ra khi nào vào đến ruột. Với phương pháp này, allicin được hấp thụ ngay tại ruột và nhờ vậy sẽ tránh được phần nào tình trạng làm cho hơi thở có mùi hôi tỏi.
Đểtăng tính trị liệu, đôi khi người ta cho trộn thêm vào thuốc tỏi các loại thuốc thiên nhiên sau đây: ngò persil để khử mùi hôi của tỏi; échinacée + astragale đểtăng thêm sức miễn dịch ngừa cảm cúm; lécithine để giúp làm tan mỡ và tan cholestérol trong máu; aubépine (hawthorn)+ ớt cayenne để giúp máu lưu thông dễdàng; vitamin C hay nhân sâm ginseng hoặc gừng để tăng thêm sinh lực.
*Tỏi ngâm lâu tự nhiên (ail vieilli, kyolic garlic, aged garlic extract hay AGE): loại tỏi ngâm lâu tự nhiên, có được qua phương pháp nghiền cắt tỏi cho nhỏ và đem ngâm trong nước hoặc rượu trong một thời gian lâu khoảng hai năm.
Liều lượng: uống từ 600mg-900mg/ngày
AGE is, as the name suggests, produced by aging garlic: it's sliced, macerated and kept in water or alcohol for up to two years before being turned into a dietary supplement.
Thông qua quá trình nầy, chất alliine sẽ được chuyển hóa ra thành rất nhiều hợp chất khác liên hệ đến allicin (allicin related compounds), nhưng không hẳn là chất allicin thật sự.
Nhờthế nó giúp hơi thở người sử dụng khỏi bị hôi mùi tỏi.
Mặc dù không phải allicin nhưng các hoạt chất khác của tỏi kyolic cũng có giá trịcao để bảo vệ sức khỏe, tuy nhiên chúng ta cần phải dùng đến những liều lượng thật lớn mới mong có được kết quả mong muốn.
Tỏi kyolic được bán dưới dạng viên và thường được kết hợp với vài loại thuốc thiên nhiên khác.
Sựlo ngại về chất lượng của thuốc tỏi bán trên thị trường
Nênđể ý những câu ghi chú sau đây được ghi trên sản phẩm:
=Allicin rich (giàu chất allicin)
Câu này sẽ không có ý nghĩa gì hết nếu không có kèm theo số lượng tính bằng phần triệu của gram (micrograms) allicin mà nó tạo ra.
=Alliin amount (số lượng alliin)
Một vài loại sản phẩm có ghi nồng độ chất alliin chứa đựng trong viên thuốc, nhưng nên biết rằng chỉ có từ 10% đến hơn 50% alliin được chuyển ra thành allicin và sự chuyển hóa nầy còn tùy thuộc vào số lượng và hoạt tính của enzyme alliinase trong thuốc tỏi.
=Tỏi tươi và tỏi khô
1gram tỏi tươi có thể tạo ra khoảng từ 1.000 đến 3.333 micrograms allicin. Một gram tỏi khô trên nguyên tắc phải cho ra một số allicin gấp ba lần số trên. Tuy nhiên kết quả cũng còn tùy thuộc vào mức độ khô của tỏi.
=Các chiết xuất (extracts)
Ởthể này, trên lý thuyết thì số hoạt chất chứa đựng phải đậm đặc và nhiều hơn nếu so sánh với tỏi tươi hoặc với cả tỏi khô nữa. Tuy nhiên, trong thực tế phẩm chất của chất trích cũng không có mấy khác biệt gì với bột tỏi khô bình thường.
Chúng ta nên biết là trên thực tế thì hàng dỏm lại khó có thể…tránh khỏi!
Và lại nữa số lượng hoạt chất ghi trên nhãn hiệu cũng chưa chắc là phản ảnh trung thực của món thuốc ở bên trong!
Kết luận
Tại Canada và Hoa Kỳ, thuốc tỏi chỉ được xếp vào nhóm thực phẩm bổ sung (dietary supplements) chớ nó không được xem như một dược phẩm theo đúng nghĩa, cũng vì thế mà thuốc tỏi không được kiểm soát chặt chẽ như thuốc Tây.
Đối với giới y khoa, thì họ cũng còn rất e dè và hoài nghi về tính năng trị liệu của tỏi.
Đối với một số người Việt Nam, thì họ lại xem tỏi như một “dược phẩm” nhiệm mầu và có vẻ rất tin tưởng vào tỏi trong việc phòng hay trị một vài chứng bệnh lặt vặt nào đó.
Sau 75, tại Việt Nam hầu như bất cứ bệnh gì, người ta cũng còn dùng đến tỏi đểphòng hay để trị bệnh...
Có người còn chế ra món tỏi ngâm rượu để uống hằng ngày nữa, có hỏi họ thì họ trảlời là “uống thấy cũng đỡ lắm”.
Có người còn dám nói thêm rằng uống rượu tỏi mỗi ngày rất tốt cho sức khỏe và cho cái vụ múa lân nữa…Đúng hay sai, làm sao mà…kiểm chứng cho được!
Tỏi rất rẻ tiền, ít có phản ứng phụ, thì tại sao chúng ta không thử?
Hãy xem nó như một loại gia vị giúp tăng hương vị cho món ăn và cũng có thể có lợi phần nào cho sức khỏe của chúng ta nữa!
Nhưng cho dù bạn có ăn cả kí-lô tỏi đi nữa, mà không có một nếp sống quân bình lành mạnh thí dụ như: không bớt ăn thịt hay mỡ dầu; không bớt ăn ngọt hay mặn; không chịuăn nhiều rau hay hoa quả; không bỏ thuốc; không bớt rượu hay cà phê; không chừa bỏ hay hạn chế ba cái…vụ lăng nhăng này nọ; và sau cùng là không vận động hay thể dục thể thao thường xuyên; v.v… thì chắc chắn tỏi cũng sẽ không có một giá trị nào cả để có thể cải thiện sức khỏe cho bạn được!
Lẽtất nhiên, nếu trường hợp bị bệnh nặng như trong trường hợp bệnh cao máu hay tiểuđường, vân vân, thì dứt khoát là bạn cần phải sử dụng đến một vài loại thuốc Tây đặc trị nào đó mới mong có thể ổn định được sức khỏe của mình được vậy./.
Tham khảo:
-La vérité sur l'ail: Science et Avenir, Sept 2005
-EllenTattelman MD: Health effects of Garlic, Albert Einstein College of Medicine of Yeshiva Univ., Bronx New York
-Product Review: Garlic Supplements. ConsummerLab.com
-Jean Yves Dionne, Pharm: Ail, PasseportSanté.net
-Josling P: Preventing the common cold with garlic
-Juliana Juhas, D.Pharm, Ph.D: Plants & Natural substances for Therapeutic Use. PharmEssor
-Natural Medicines, Comprehensive Database, Compiled by the Editors of Pharmacist's Letter & Prescriber's Letter, Sixth Edition, 2004 (Sách tham khảo của Dược Sĩ tại Hoa Kỳ và Canada) Natural Medicines comprehensive Database
Montreal, Feb 11, 2012
---------------------------------------------------------

RƯỢU TỎI CHỮA BỆNH

ĐÂY LÀ BÀI THUỐC CHỮA ĐƯỢC NHIỀU BỆNH BẰNG RƯỢU TỎI ĐƯỢC WHO THÔNG BÁO NĂM 1980 :

Rượu tỏi___công dụng và chữa bệnh 


I_ XUẤT XỨ: 
o những năm 1960-1970, WHO_cơ quan theo dõi sức khoẻ & bệnh tật thế giới của Liên Hiệp Quốc phát hiện ở Ai Cập là một nước nghèo, khí hậu sa mạc khắc nghiệt nhưng sức khoẻ chung của nhân dân Ai Cập lại vào loại tốt, ít bệnh tật & tuổi thọ trung bình tương đối cao. WHO đặt vấn đề với chính phủ Nasser xin cử một phái đoàn của WHO về Ai Cập nghiên cứu xem tại sao có hiện tượng lạ như thế mà nghành Y tế Ai cập chưa giải thích được. 

Ðược Tổng Thống Nasser đồng ý WHO huy động nhiều chuyên gia y tế về Ai Cập nghiên cứu chia nhau đi xuống nông thôn, các vùng có khí hậu khắc nghiệt để thu thập các tài liệu đặc biệt. Cuối cùng các nhà nghiên cứu (đông nhất là Hoa Kỳ, Tây Âu, Nhật Bản) nhận xét là ở Ai Cập nhà nào cũng có 01 lọ rượu ngâm tỏi để uống. Nhân dân Ai Cập nói từ bao nhiêu thế kỷ nay nước họ vẫn là thế. 

Ngày xưa Ai Cập là một đế chế lớn, chinh chiến liên miên, chủ yếu là xử dụng gươm dao chém giết nhau. Thời ấy làm gì có thuốc kháng sinh, nên họ chỉ dùng nước tỏi để uống & cũng để rửa các vết thương. 
Ở các vùng tỏi được ngâm rượu theo những công thức khác nhau. Chuyên gia các nước đem những công thức đó về nước mình nghiên cứu và phân tích. Kết luận cái gì tốt rồi sau đo' thông qua một báo cáo gởi cho WHO. Sau đó WHO tổng kết & hội thảo về vấn đề này. Rồi đến năm 1980 họ thông báo: 

Rượu tỏi chữa trị được 04 nhóm bệnh:


1) Thấp khớp (sưng khớp, vôi hoá các khớp, mỏi xương cốt). 

2) Tim mạch (huyết áp thấp, huyết áp cao, hở van tim, ngoại tâm thư) 

3) Phế quản (viêm phế quản, viêm họng, hen phế quản). 

4) Tiêu hoá (ăn khó tiêu, ợ chua, viêm tá tràng, loét bao tử). 
Ðến năm 1983, Nhật lại thông báo bổ sung thêm 02 nhóm bệnh nữa là: 

5) Trĩ nội & trĩ ngoại. 

6) Ðại tháo đường (tiểu đường) 
Nhật cũng công bố:"-Ðây là một loại thuốc tuyệt vời của nhân loại vì dễ làm, rẻ tiền, không gây phản ứng phụ & có hiệu quả chữa bệnh rất cao".

II_ NGUYÊN LY': 

Con người ta thông thường tuổi từ 40 trở lên (có thể trẻ hơn nữa) là đã có bệnh. Các bộ phận trong cơ thể bắt đầu thoái hoá, bộ phận nào yếu thì thoái hoá nhanh, đặt biệt là làm cho các chức năng hấp thụ chất béo (lipid) chất đường (glucone) bị suy giảm. Các chất đó không hấp thụ hết qua đường tiêu hoá, phần thừa không thải ra ngoài được, dần dần lắng đọng trong thành vách mạch máu, làm xơ cứng động mạch & xơ cứng một số bộ phận khác rồi lâu ngày gây ra những chứng bệnh như trên.

Trong tỏi có 02 chất quan trọng: 


1) Phitoncid là loại kháng sinh thực vật có tác dụng diệt một số vi khuẩn. 

2) Hoạt tính màu vàng giúp làm tiêu chất béo dưới dạng cholesterol bám vào thành quách mạch máu, làm cho đường đi của máu từ tim ra & về tim bị nghẽn. Chính nhờ 02 chất này mà tỏi có tác dụng chữa bệnh cao.

III_CÔNG THỨC ÐIỀU CHẾ & CÁCH DÙNG: 


IV_ KẾT QUẢ CHỮA BỆNH: 
Tác giả tổng hợp bài viết này theo kinh nghiệm chứng thực cho biết: Từ năm 1970 bị thấp khớp nặng_sưng cả các khớp phải đi bằng gậy chống. Thuốc tân dược & đông y dùng đã nhiều như "Cao hổ cốt", "rượu tắc kè" (lúc nào cũng có sẵn), thế mà bệnh không đỡ lại nặng thêm. Năm 1975 bị ngã gần chết. Năm 1981 bị ngất phải đưa vào cấp cứu ở bệnh viện 03 ngày mới hết nên sức khoẻ càng giảm. 

o cuối năm 1982 mới bắt đầu uống rượu ngâm tỏi, thì 20 ngày sau bắt đầu thấy giảm bệnh sưng khớp. Qua 03 tháng, huyết áp trở lại bình thường. Bệnh viêm họng cũng khỏi_Hen phế quản giảm nhiều. Ngoài ra tác giả còn cho biết bịnh trĩ nội mỗi năm đi mất 05, 07 lần. Hen phế quản nặng cấp cứu nằm bệnh viện 02, 03 lần. Từ khi liên tục dùng rượu tỏi cho tới nay đã gần 08 năm mà không phải đi bệnh viện lần nào cả. Ngủ rất bình thường, ăn thì tiêu hoá tốt, đặt biệt đối với bệnh thấp khớp thì coi như thuốc thần. Vì tác giả trước đây khổ vì thấp khớp, nay khỏi hẳn không còn biểu hiện gì cả. 

Cho nên, kết luận của người Nhật phần trên là hoàn toàn đúng: 
"Ðây là thứ thuốc tuyệt vời của nhân loại, vì dễ làm, rẻ tiền, không gây phản ứng phụ & lại có hiệu quả chữa bệnh rất cao.


(Theo World Hearth Organizations) 

Cách bào chế rượu tỏi: Tỏi khô (đã bóc bỏ vỏ) 40 g đem thái nhỏ, cho vào chai ngâm với 100 ml rượu trắng 40-45 độ, thỉnh thoảng lại lắc chai rượu, dần dần rượu chuyển từ màu trắng sang màu vàng, đến ngày thứ 10 thì chuyển sang màu nghệ và uống được. Mỗi ngày dùng 2 lần, sáng uống 40 giọt (tương đương một thìa cà phê) trước khi ăn; tối uống 40 giọt trước khi ngủ. Uống khoảng 20 ngày thì hết, bởi vậy cứ sau 10 ngày lại ngâm tiếp, để ngày nào cũng có rượu tỏi dùng. Uống liên tục suốt đời với một lượng rượu rất nhỏ như thế, người kiêng rượu hoặc không uống được rượu vẫn dùng được. Ở nước ta, đã có nhiều người áp dụng bàithuốc rượu tỏi trên của WHO, nhưng liều lượng thì linh hoạt (thậm chí có người uống tới 3 thìa cà phê rượu tỏi/lần) nhưng không thấy phản ứng phụ.
( Nguồn; http://my.opera.com/nhhung164/blog/suc-khoe )